Các nhân tố ảnh hưởng đến gian lận kế toán các doanh nghiệp niêm yết trong lĩnh vực tài chính trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các nhân tố ảnh hưởng đến gian lận kế toán các doanh nghiệp niêm yết trong lĩnh vực tài chính trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

{Bài viết đăng trên Tạp chí Kế toán và Kiểm toán (ISSN 1859 – 1914), số 214, Tháng 7/2021 của Ngô Thị Linh và Nguyễn Thị Thu Hiền – Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh}

Mục tiêu của nghiên cứu là xác định các nhân tố ảnh hưởng đến gian lận kế toán, tại các doanh nghiệp niêm yết trong lĩnh vực tài chính, trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu áp dụng và kế thừa mô hình gốc của Wilopo (2006), kết hợp với mô hình của SA Irwandi và Purnomo, & Muhammad Khafid (2017). Kết quả cho thấy, các nhân tố: Khó khăn về tài chính (F1); Bất cân xứng thông tin (F2); Tuân thủ nguyên tắc kế toán (F3); Hiệu quả kiểm soát nội bộ (F4); Đạo đức nhà quản lý (F5); Tính phù hợp của hệ thống bồi thường (F6): đều có ảnh hưởng đến gian lận kế toán.
Từ khóa: gian lận kế toán, doanh nghiệp niêm yết, lĩnh vực tài chính.
Abstract:
The study aims to explore the factors affecting accounting fraud in listed companies in the financial sector in Ho Chi Minh City. The research is applying and inheriting the original model of Wilopo (2006) combined with the model Irwandi và Purnomo, & Muhammad Khafid (2017). Research results show factors affecting accounting fraud such as financial difficulties ( F1), Information asymmetry (F2), Compliance with accounting rules (F3), The effectiveness of internal controls(F4), Unethical behavior ( F5) compensation suitability ( F6) all affect the accounting fraud.
Keywords: accounting fraud, listed companies, financial sector.


1. Giới thiệu
Gian lận kế toán là một hiện tượng phổ biến tại mọi quốc gia, ngành công nghiệp, các công ty thuộc mọi quy mô (Mohamed 2014; Clinard & Yeager 2011; Dyck & cộng sự 2013). Gian lận đem lại nhiều tổn thất to lớn cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp (DN).

Đây là hành vi sai lệch thường xuyên xảy ra, thu hút sự quan tâm của truyền thông và xã hội. Theo báo cáo khảo sát tội phạm kinh tế và gian lận toàn cầu năm 2018, được nghiên cứu bởi PwC, tỷ lệ gian lận kế toán chiếm tới 22%. Tổn thất từ tội phạm kinh tế có thể được chia thành tổn thất tài chính và tổn thất phi tài chính.

Với các hậu quả về kinh tế và xã hội, nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh việc kiểm tra các yếu tố dẫn đến gian lận trong báo cáo tài chính (BCTC) (Erickson & cộng sự 2006; Kedia & Philippon 2009; Ball 2009). Đã có nhiều nghiên cứu tại các quốc gia về vấn đề gian lận và những nghiên cứu này đều đưa ra được các nhân tố điển hình có ảnh hưởng đến việc gian lận kế toán, nhưng chưa có nghiên cứu nào cố gắng giải thích các yếu tố ảnh hưởng đến nó một cách toàn diện. Mỗi nghiên cứu đều tập trung vào một vài nhân tố cơ bản và riêng lẻ.

Tại Việt Nam, nhiều DN chưa nhận thức đúng đắn về các chi phí, lợi ích của việc tuân thủ và quản lý rủi ro gian lận. Bên cạnh đó, vấn đề nghiên cứu liên quan đến gian lận kế toán vẫn còn khá hạn chế. Một số ít bài nghiên cứu hiện chỉ đang dừng lại ở phương diện định tính, cho nên các giải pháp đưa ra chưa được toàn diện và xác đáng.

Với mong muốn, góp phần cung cấp một cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về vấn đề gian lận kế toán hiện nay tại Việt Nam, tác giả tiến hành nghiên cứu này, hy vọng có thể góp phần làm phong phú thêm cho nền tảng nghiên cứu trong lĩnh vực kế toán và gian lận, cũng như có thể trở thành tài liệu tham khảo hữu ích cho các bài nghiên cứu liên quan sau này.

2. Tổng quan nghiên cứu
Skousen & cộng sự (2009) đã xác định được 5 yếu tố động cơ/áp lực và 2 yếu tố cơ hội có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê với khả năng xảy ra gian lận trên BCTC. Tương tự, Lou & Wang (2011) cũng nghiên cứu mối quan hệ giữa các yếu tố của tam giác gian lận và khả năng BCTC có gian lận. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hành vi gian lận có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê với các biến (đại diện cho các yếu tố của tam giác gian lận). Như vậy, mô hình nghiên cứu của Skousen & cộng sự (2009) và Lou & Wang (2011) đều có khả năng dự báo gian lận.

Ngoài ra, thời gian qua, có một số nghiên cứu khác liên quan đến việc tìm hiểu và xác định các nhân tố có ảnh hưởng đến gian lận kế toán được tiến hành tại một số quốc gia như: Rifki Mirza Zulkarnain (2013), Jurusan Akuntasi (2013), Shabnam Fazli Aghghaleh, Takiah Mohd Iskandar Zakiah Muhammaddun Mohamed (2014), SA Irwandi (2017), Yanuar Dwi Purnomo, & Muhammad Khafid (2017).

Tại Việt Nam, cũng có nhiều tác giả nghiên cứu về đề tài này, có thể tổng quan một số nhóm tác giả và nội dung nghiên cứu như: (1) nhóm tác giả Ngô Thị Thu Hằng, Lê Thị Kim Sơn, Nguyễn Thị Thùy Dung (2013) kiểm tra tác động của hệ thống thông tin kế toán đến mức độ tồn tại gian lận và sai sót trong các DN nhỏ và vừa tại Hà Nội; (2) nhóm tác giả Trần Thị Giang Tân, Nguyễn Trí Tri, Đinh Ngọc Tú, Hoàng Trọng Hiệp và Nguyễn Đình Hoàng Uyên (2015) xem xét mối quan hệ giữa các yếu tố của tam giác gian lận và khả năng xảy ra gian lận trên BCTC; (3) Nguyễn Công Phương, Lâm Xuân Đào (2016) với nghiên cứu “Các nhân tố ảnh hưởng đến sai phạm trong BCTC của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam”; (4) Vương Lê Sơn (2019), ứng dụng mô hình F-SCORE để dự đoán gian lận trên BCTC của các công ty niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM.

Trong những năm gần đây, các nghiên cứu về gian lận kế toán là một vấn đề được nhiều tác giả lựa chọn nghiên cứu. Tuy nhiên, qua việc tổng quan các công trình nghiên cứu trước đây về chủ đề này cho thấy, mỗi nghiên cứu có hướng tiếp cận khác nhau và hầu hết các nghiên cứu tiếp cận theo quy trình các nghiên cứu trước, dựa vào lý thuyết nền tảng và đặc điểm kinh tế xã hội của mỗi quốc gia để xây dựng mô hình và kiểm định mô hình. Ngoài ra, các nghiên cứu ở nước ngoài tập trung vào dữ liệu gian lận BCTC, đã được nhận diện bởi cơ quan pháp lý.