Số thuế tạm nộp của 4 quý không được thấp hơn 80% số phải nộp theo quyết toán năm

Số thuế tạm nộp của 4 quý không được thấp hơn 80% số phải nộp theo quyết toán năm

Đó là một trong những nội dung sửa đổi quan trọng của Nghị định bổ sung một số điều của NĐ 126 (NĐ 126) quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế và Nghị định số 123/2020/NĐ-CP (NĐ 123) của Chính phủ quy định về hóa đơn, chứng từ.

Cần thiết phải sửa đổi bổ sung NĐ 126 và NĐ 123

Bộ Tài chính cho biết, nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thuế, tháo gỡ những khó khăn trong việc tạm nộp thuế TNDN, giúp doanh nghiệp (DN) yên tâm phục hồi sản xuất kinh doanh, Bộ Tài chính đang lấy ý kiến của các bộ, ngành, hiệp hội DN về dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của NĐ 126 và NĐ 123. Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính sẽ tổng hợp để trình Chính phủ.

Cụ thể, về trách nhiệm của chủ sở hữu sàn giao dịch thương mại điện tử (TMĐT) trong việc kê khai, nộp thuế và cung cấp thông tin cho cơ quan quản lý thuế. Tại Nghị định số 85/2021/NĐ-CP (NĐ 85) bổ sung quy định nhằm tăng cường trách nhiệm của chủ sở hữu sàn giao dịch TMĐT, trong đó có quy định chủ sở hữu sàn giao dịch TMĐT có trách nhiệm thông báo nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật Việt Nam của người bán nước ngoài khi tham gia sàn giao dịch TMĐT.

Về việc khai thuế thay, nộp thuế thay đã được quy định khá đầy đủ tại khoản 5 Điều 7 NĐ 126. Tuy nhiên, chưa có quy định về trách nhiệm của chủ sàn giao dịch TMĐT như quy định tại NĐ 85. Vì vậy, cần thiết phải bổ sung tại Nghị định về quản lý thuế để phù hợp và đồng nhất với NĐ 85 về TMĐT.

Về trách nhiệm cung cấp thông tin của tổ chức, cá nhân có liên quan, khoản 2 Điều 27 NĐ 126 đã quy định trách nhiệm cung cấp thông tin của tổ chức, cá nhân có liên quan. Tuy nhiên, đối với các tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ TMĐT là chủ sở hữu sàn giao dịch TMĐT thì vẫn chưa có quy định rõ về nội dung thông tin phải cung cấp, hình thức và tần suất cung cấp thông tin. Trong khi đó, các thông tin do chủ sở hữu sàn giao dịch TMĐT cung cấp là quan trọng và cần thiết cho công tác quản lý thuế đối với các tổ chức, cá nhân bán hàng hóa, dịch vụ thông qua sàn giao dịch TMĐT.

Về quy định tạm nộp thuế TNDN, tạm nộp lợi nhuận sau thuế còn lại sau khi trích lập các quỹ. Tại điểm b, c, g khoản 6 Điều 8 NĐ 126 hiện đang quy định DN phải thực hiện tạm nộp thuế TNDN, tạm nộp lợi nhuận sau thuế còn lại sau khi trích lập các quỹ của 3 quý đầu năm tính thuế không được thấp hơn 75% số thuế TNDN, số lợi nhuận sau thuế còn lại sau khi trích lập các quỹ phải nộp theo quyết toán năm.

Nếu tổng số đã tạm nộp của 3 quý đầu năm thấp hơn 75% số thuế phải nộp của cả năm thì DN bị tính tiền chậm nộp tính trên số thuế TNDN, số tiền lợi nhuận sau thuế còn lại sau khi trích lập các quỹ nộp thiếu kể từ ngày tiếp sau ngày cuối cùng của thời hạn tạm nộp thuế thu nhập doanh nghiệp quý 03 đến ngày nộp số thuế còn thiếu vào ngân sách nhà nước.

Thực hiện quy định nêu trên thì đến thời hạn tạm nộp thuế TNDN của quý 3, DN cần ước tính số thuế TNDN phải nộp của cả năm làm cơ sở để xác định số thuế tạm nộp của 3 quý đầu năm. Việc yêu cầu DN ước số thuế phải nộp cả năm trong khi còn 2 tháng nữa mới kết thúc năm là chưa hợp lý về mặt thời điểm nên chưa thực sự tạo thuận lợi cho người nộp thuế.

Tại Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 quy định về thời hạn nộp hồ sơ khai thuế, thời hạn nộp thuế, thời hạn cơ quan quản lý thuế giải quyết hồ sơ, thời hạn hiệu lực của quyết định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế được tính theo ngày dương lịch.

Nhưng trong thực tế phát sinh trường hợp ngày cuối cùng của các thời hạn nêu trên là ngày nghỉ cuối tuần hoặc ngày nghỉ lễ và tại NĐ 126 không có quy định về vấn đề này dẫn đến cơ quan thuế, người nộp thuế gặp vướng mắc trong thực hiện.

Tại NĐ 123 của Chính phủ quy định về hóa đơn, chứng từ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2022. Trong đó có quy định khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân đáp ứng điều kiện về hạ tầng công nghệ thông tin áp dụng quy định về hóa đơn, chứng từ điện tử trước ngày 01/07/2022.

Tại Phụ lục ban hành kèm theo NĐ 123 cũng có mẫu số 01/TB-SSĐT Thông báo về việc tiếp nhận và kết quả xử lý HĐĐT đã lập có sai sót trong đó có quy định “Chữ ký số của Thủ trưởng cơ quan thuế”.

Tuy nhiên, qua thực tiễn triển khai HĐĐT, tại 6 tỉnh, thành phố trong thời gian qua, khối lượng hóa đơn sai sót mà người nộp thuế thông báo đến cơ quan thuế là khá nhiều. Đối với trường hợp sai sót do người nộp thuế tự phát hiện, việc Thủ trưởng cơ quan thuế phải thực hiện ký đích danh để phản hồi về việc cơ quan thuế đã tiếp nhận Thông báo HĐĐT có sai sót đối với từng trường hợp làm cho quá trình xử lý mất nhiều thời gian, tăng khối lượng công việc tại cơ quan thuế và chưa tạo thuận lợi cho người nộp thuế