29 Aug Vì nước, vì dân, ngành Thuế Việt Nam vững bước vươn mình trong kỷ nguyên mới
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đánh dấu sự ra đời của một nhà nước độc lập. Ngay sau đó một tuần, vào ngày 10/9/1945, Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 27 lập ra Sở Thuế quan và Thuế gián thu, đánh dấu sự ra đời chính thức của ngành Thuế Việt Nam.
Từ Sắc lệnh số 27 đến hiện đại hóa từ cải cách thể chế
Từ mùa thu lịch sử năm 1945 đến hôm nay, cùng nhịp với những đổi thay vĩ đại của dân tộc, ngành Thuế Việt Nam đã khẳng định vai trò điểm tựa tài chính của Nhà nước, góp phần quyết định vào từng thắng lợi của cách mạng, của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tám mươi năm – một hành trình kiên định với lý tưởng phục vụ nhân dân, thấm đẫm mồ hôi và trí tuệ của các thế hệ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động toàn ngành; một chặng đường đủ dài để vun đắp truyền thống đoàn kết, liêm chính, chuyên nghiệp, đổi mới và mở ra tầm nhìn mới trong kỷ nguyên chuyển đổi số, hội nhập sâu rộng, phát triển bền vững.
Ngược dòng lịch sử, vào ngày 10/9/1945, Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 27 lập ra Sở Thuế quan và Thuế gián thu, đánh dấu sự ra đời chính thức của ngành Thuế Việt Nam. Điều đặc biệt là sự kiện, dấu mốc quan trọng này diễn ra chỉ sau đúng một tuần sau ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đánh dấu sự ra đời của một nhà nước độc lập.
| “Câu dặn dò của Bác Hồ đối với ngành Thuế mấy chục năm trước “Thu thuế phải thu được lòng dân” đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Trong nền kinh tế số ngày nay, thu được lòng dân mới thu được thuế. Chính vì vậy, việc triển khai hóa đơn điện tử, tạo thuận lợi tối đa, giảm tối đa tất cả chi phí cho cho người nộp thuế, từ đó người nộp thuế thực sự là trung tâm phục vụ và chính là thu được lòng dân như lời căn dặn của Bác Hồ.”
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính |
Trên nền tài chính còn non trẻ, thuế nhanh chóng trở thành công cụ huy động nguồn lực cho cuộc kháng chiến kiến quốc, bảo đảm lương thực, tiền vốn cho các mặt trận, tạo thế và lực để Nhà nước đứng vững, dân tin, quân mạnh; góp phần vào thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ và đỉnh cao là Đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước – non sông thu về một mối.
Từ khói lửa chiến tranh bước sang thời bình, ngành Thuế tiếp tục là công cụ sắc bén của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới, với nhiệm vụ cải tạo quan hệ sản xuất cũ, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, tăng cường huy động nguồn lực cho mục tiêu khôi phục, xây dựng đất nước, tạo nền tảng tiến lên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ những buổi đầu với hệ thống chính sách còn đơn giản, phương thức quản lý thủ công, bộ máy tổ chức còn manh mún, công tác thuế đã không ngừng lớn mạnh, từng bước hoàn thiện thể chế, cải cách quy trình, hiện đại hoá công nghệ và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức.
Đặc biệt, kể từ thời kỳ đổi mới, lĩnh vực thuế đã có những chuyển biến căn bản, từ quản lý hành chính sang quản lý rủi ro, từ tiếp cận hành chính thuần tuý sang xây dựng mối quan hệ đối tác tin cậy với người nộp thuế (NNT), từ tư duy quản lý để thu sang tư duy phục vụ, lấy NNT, doanh nghiệp (DN) làm trung tâm, song song với tư duy quản trị để phát triển.
Hệ thống chính sách thuế được xây dựng đầy đủ, đồng bộ, áp dụng thống nhất, tiệm cận thông lệ quốc tế; các sắc thuế chủ lực từng bước hình thành và được sửa đổi, bổ sung theo hướng khuyến khích đầu tư, xuất khẩu, đổi mới công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Cùng với đó, NNT thực hiện nghĩa vụ của mình đối với NSNN trên nền tảng công nghệ số, ngày càng hiện đại hoá, dưới hình thức tự khai, tự tính, tự nộp; thủ tục hành chính được đơn giản hóa, kỷ cương, kỷ luật công vụ được siết chặt. Thuế vì thế không chỉ bảo đảm nguồn lực cho ngân sách mà còn nuôi dưỡng nguồn thu, khơi thông động lực sản xuất – kinh doanh, tạo dựng môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng.
Bộ máy tinh gọn, chuyển đổi số toàn diện
Xác định công tác sắp xếp, tinh gọn bộ máy là trách nhiệm lịch sử của toàn ngành, bám sát Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, ngành Thuế Việt Nam đã khẩn trương rà soát, tinh gọn cơ cấu tổ chức, bộ máy theo hướng giảm đầu mối, giảm cấp trung gian. Đồng thời, tăng cường phân cấp, ủy quyền cho cơ quan thuế địa phương, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
| “Tôi tin tưởng rằng, toàn ngành Thuế sẽ tiếp tục bước trên hành trình cải cách đồng bộ, chuyển đổi số đồng bộ, bộ máy tinh gọn để cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và ngành Tài chính triển khai hướng đến kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển, giàu mạnh của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.”
Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng |
Trong giai đoạn 1, từ 01/3 đến 30/6/2025, Cục Thuế triển khai mô hình mới với 12 phòng/ban chuyên môn, 20 Chi cục Thuế khu vực và 350 Đội Thuế cơ sở. Giai đoạn 2, từ ngày 01/7/2025, thực hiện chủ trương sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính nhà nước theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp, ngành Thuế tiếp tục hoàn thiện và đưa vào vận hành thống nhất bộ máy mới với 34 cơ quan Thuế tỉnh, thành phố, đảm bảo sự thông suốt, hiệu lực, hiệu quả trong chỉ đạo, điều hành trên toàn quốc.
Đây không chỉ là thay đổi mô hình tổ chức, mà còn là đổi mới phương thức quản lý, rút ngắn khoảng cách phục vụ giữa cơ quan thuế với NNT; nâng cao năng lực phối hợp liên thông giữa các cấp, các ngành; chuẩn hóa quy trình quản trị theo chuẩn mực hiện đại, quốc tế.
Đây không chỉ là thay đổi mô hình tổ chức, mà còn là đổi mới phương thức quản lý, rút ngắn khoảng cách phục vụ giữa cơ quan thuế với NNT; nâng cao năng lực phối hợp liên thông giữa các cấp, các ngành; chuẩn hóa quy trình quản trị theo chuẩn mực hiện đại, quốc tế.
Đi liền với cải cách tổ chức là chuyển đổi số, nhiệm vụ xuyên suốt trong chiến lược hiện đại hóa ngành Thuế. Theo đó, toàn ngành đã tích cực triển khai Quyết định số 06/QĐ-TTg của Chính phủ về phát triển ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến 2030. Đồng thời, thực hiện Chương trình hành động theo Nghị quyết số 57-NQ/TW (Nghị quyết 57) của Bộ Tài chính và Nghị quyết số 66/NQ-CP (Nghị quyết 66) của Chính phủ về cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính (TTHC).
Những nỗ lực cải cách được hiện thực hóa bằng việc triển khai đồng bộ, tạo ra một hệ sinh thái đối với hệ thống thuế điện tử toàn trình, hóa đơn điện tử, hoàn thuế trực tuyến, hoàn thuế thu nhập cá nhân tự động, trợ lý ảo 24/7 và cơ chế một cửa liên thông, … Ở cấp quản lý, dữ liệu đã được kết nối, chia sẻ với các bộ, ngành; công cụ phân tích rủi ro, cưỡng chế nợ thuế tự động bước đầu áp dụng hiệu quả. Người dân và DN giờ đây có thể thực hiện nghĩa vụ thuế mọi lúc, mọi nơi, an toàn và thuận tiện. Những chuyển biến này không chỉ giảm mạnh chi phí tuân thủ, ngăn ngừa thất thu mà quan trọng hơn là củng cố niềm tin, tạo sự đồng thuận xã hội đối với chính sách thuế.
Thấm nhuần tư tưởng chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm: “Muốn phát triển nhanh, bền vững thì không thể trì hoãn việc số hóa toàn diện quản trị quốc gia”, ngành Thuế tiếp tục triển khai đồng bộ các nhiệm vụ trọng tâm như sau:
Một là, tối ưu thủ tục hành chính: Bám sát Quyết định 06/QĐ-TTg về phát triển ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử; chương trình cắt giảm, đơn giản hóa TTHC theo Nghị quyết 57 và Nghị quyết 66; đặt mục tiêu giảm tối thiểu 30% thời gian xử lý và 30% chi phí tuân thủ, 100% TTHC thuế trực tuyến, thông suốt, liền mạch, hiệu quả.
Hai là, số hóa quy trình nghiệp vụ: Số hóa kết quả giải quyết hồ sơ; cơ chế một cửa liên thông; hoàn thuế TNCN; tờ khai quyết toán gợi ý, trợ lý ảo thuế 24/7 trên Cổng thông tin điện tử.
Ba là, kết nối liên thông dữ liệu: Triển khai hệ thống cưỡng chế nợ thuế tự động trên toàn quốc; kết nối trực tiếp với Bộ Công an và các ngân hàng thương mại để truyền nhận thông báo tạm hoãn xuất cảnh, phong tỏa tài khoản qua phương thức điện tử; phát triển ứng dụng eTax Mobile và tích cực tích hợp với VNeID, giúp công dân thực hiện nghĩa vụ thuế mọi lúc, mọi nơi.
Bốn là, phát triển cơ sở dữ liệu lớn – trí tuệ nhân tạo: Tiên phong ứng dụng AI trong quản lý nợ, phân loại rủi ro, dự báo thu, lập kế hoạch; mở rộng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền.
Đáng chú ý, chỉ trong nửa đầu năm 2025 đã có hàng trăm nghìn cơ sở kinh doanh đăng ký sử dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền, trong đó có đông đảo hộ và cá nhân kinh doanh. Điều này cho thấy chủ trương tại Nghị định 70/2025/NĐ-CP đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, khẳng định quyết tâm số hóa trong quản lý thuế.


