24 Th1 Ảnh hưởng quản trị lợi nhuận đến giá cổ phiếu – Nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam
Tóm tắt
Quản trị lợi nhuận (QTLN) là một trong những chủ đề nhận được nhiều quan tâm từ các nhà nghiên cứu, nhà đầu tư và cơ quan quản lý, vì hành vi này có khả năng gây ảnh hưởng đến giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Mục tiêu của nghiên cứu, nhằm cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm về tác động của QTLN trực tiếp và gián tiếp đến giá cổ phiếu, từ dữ liệu 243 doanh nghiệp (DN) sản xuất kinh doanh niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, trong giai đoạn 2016 – 2021. Kết quả nghiên cứu cho thấy, QTLN tác động trực tiếp ngược chiều đến giá cổ phiếu, tác động cùng chiều đến công bố thông tin (CBTT) báo cáo tài chính (BCTC) và CBTT BCTC tác động cùng chiều đến giá cổ phiếu, ảnh hưởng của biến trung gian CBTT BCTC đến giá cổ phiếu.
Từ khóa: quản trị lợi nhuận, công bố thông tin báo cáo tài chính, vi phạm công bố báo cáo tài chính, giá cổ phiếu, thị trường chứng khoán.
Abstract
Earning management is one of the topics that has garnered significant attention from researchers, investors, and regulatory authorities, as this behavior has the potential to influence stock prices in the securities market. The objective of this research is to provide empirical evidence on the direct and indirect effects of on stock prices, using data from 243 listed manufacturing and business enterprises in the Vietnamese stock market during the period 2016 – 2021. The research results indicate that has a direct inverse impact on stock prices, a concurrent impact on financial statement disclosures, and disclosures have a concurrent impact on stock prices. The influence of intermediate variables in financial report disclosure on stock prices is also observed.
Keywords: earning management, financial statement disclosure, financial report disclosure violations, stock prices, stock market.
JEL Classifications: M40, M48, M49.
DOI: https://doi.org/10.59006/vnfa-jaa.11202301
- Giới thiệu
Kể từ Thế kỷ 17, thị trường chứng khoán (TTCK) trở thành một trong những kênh huy động vốn quan trọng trong hệ thống tài chính, giúp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần ổn định nền kinh tế quốc gia. Theo VSD (Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam), đến hết năm 2022, vốn hóa thị trường đạt 5,227 nghìn tỷ USD (chiếm 55% GDP và giảm 32,7% so với cuối năm 2021). Việt Nam được xem là một nền kinh tế đang phát triển và có thị trường chứng khoán phát triển nhanh trong khu vực châu Á (Đào Lê Trang Anh và Christopher Gan, 2021).
Hiện nay, Việt Nam đã có một số các quy định liên quan đến CBTT gồm Luật Chứng khoán năm 2019, Thông tư số 96/2020/TT-BTC, Nghị định 156/2020/NĐ-Cổ phiếu. Tuy nhiên, CBTT vẫn được xem là một trong những vấn đề nan giải của Chính phủ khi các hành vi QTLN, vi phạm CBTT không đầy đủ, trung thực vẫn tồn tại, tác động đến giá cổ phiếu và gây tổn thất cho các nhà đầu tư trên thị trường. Việc nâng cao các chính sách giám sát chặt chẽ CBTT BCTC, sẽ góp phần giảm thiểu bất cân xứng thông tin, giảm rủi ro đầu tư cổ phiếu cho nhà đầu tư và rủi ro thông tin cho người sử dụng BCTC. Một số nghiên cứu tại Việt Nam liên quan đến việc tác động của QTLN đến CBTT BCTC và giá cổ phiếu nhưng chưa nhiều, chủ yếu đo lường qua các chỉ số tài chính trong giai đoạn trước Covid-19.
Hiện nay, tại Việt Nam có rất ít các nghiên cứu sử dụng Phương pháp Mô hình phương trình cấu trúc tổng quát (GSEM – Generalized structural equation modeling) để phân tích kết quả nghiên cứu. Mặc dù, đây là một trong những phương pháp linh hoạt và phổ biến, thường dùng để giải thích các mô hình có mối quan hệ phức tạp (có biến nhị phân), xử lý dữ liệu bị thiếu tốt hơn và cải thiện mức độ phù hợp của mô hình.
- Cơ sở lý thuyết và các giả thuyết trong mô hình
2.1. Các khái niệm nghiên cứu
2.1.1. Quản trị lợi nhuận
QTLN là hành vi mà các nhà quản lý tác động đến thông tin BCTC của DN, để đạt được một số mục tiêu nhất định. Một số khía cạnh QTLN, như là: Quản trị BCTC (Dựa trên cơ sở dồn tích – AEM, hoạt động thực – REM) các hình thức thể hiện như ổn định lợi nhuận (income smoothing), làm giảm lợi nhuận trong hiện tại cho các lợi ích lợi nhuận trong tương lai, thao túng lợi nhuận (earning manipulation), sáng tạo kế toán (creative accounting), làm đẹp BCTC (window-dressing),… (Connelly và cộng sự, 2011; Consoni và Colauto, 2016; Brennan, 2021; Kliestik và cộng sự, 2020).
QTLN là một khái niệm đa chiều và có thể đo lường qua nhiều phương diện khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu này sẽ đo lường QTLN qua các khoản dồn tích điều chỉnh, dựa trên Mô hình Jones điều chỉnh của Dechow và cộng sự (1995). Các khoản dồn tích điều chỉnh – DA (Discretionary accruals) này thường được tính, thông qua tổng các khoản dồn tích – TA (Total accruals) và các khoản dồn tích không điều chỉnh – NDA (Nondiscretionary accruals), bằng công thức:
DAit = TAit – NDAit
Từ đây suy ra:
DAit/At-1 = TAit/At-1 – NDAit/At-1 (1)
Theo Lai (2011) thì |DAit/At-1| chính là QTLN, thông qua các khoảng dồn tích điều chỉnh (có thể mang giá trị âm hoặc dương).
2.1.2. CBTT BCTC
Qua quá trình lược khảo tài liệu, tác giả nhận thấy rằng, CBTT được nhắc đến trong các nghiên cứu trước đều mang ý nghĩa tương tự nhau. Nhìn chung, CBTT được cho là việc mà DN công khai các thông tin tài chính hoặc phi tài chính, liên quan đến tình hình hoạt động của DN trên các bản báo cáo (BCTC đã kiểm toán, báo cáo thường niên, báo cáo quản trị,…).
Theo Shakhatreh và cộng sự (2020), việc đo lường CBTT thông qua vi phạm hoặc không vi phạm thực tế về CBTT sẽ khách quan và có độ tin cậy cao. Do vậy, nghiên cứu này sẽ đo lường CBTT BCTC thông qua đánh giá vi phạm CBTT. Dữ liệu được thu thập trên trang web của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước theo từng năm. Sử dụng biến giả, 1 là trường hợp có vi phạm và 0 là trường hợp không có vi phạm để phân tích.
2.1.3. Giá cổ phiếu
Theo quy định tại Việt Nam, các DN niêm yết trên thị trường chứng khoán phải công bố BCTC đã được kiểm toán trước ngày 31/03 hàng năm, kể từ ngày kết thúc năm tài chính, có những công ty công bố trước ngày 31/12 thì ảnh hưởng ngay đến giá cổ phiếu của công ty đó. Tuy nhiên, số lượng BCTC của các DN đăng vào ngày 31/03 hàng năm vẫn nhiều hơn. Vì vậy, dữ liệu nghiên cứu này sẽ lấy giá cổ phiếu là giá đóng cửa của công ty tại ngày 31/03 hàng năm. Đây cũng là thời điểm rõ hơn về phản ứng của nhà đầu tư đối với thông tin BCTC được công bố trên thị trường các DN có năm tài chính kết thúc khác ngày 31/12, sẽ không được xem xét trong mẫu nghiên cứu này.
2.2. Lý thuyết nền
2.2.1. Lý thuyết đại diện
Lý thuyết đại diện là một trong những lý thuyết được đề cập rộng rãi trong các nghiên cứu trước đó (Đặng Ngọc Hùng, 2022; Shakhatreh và cộng sự, 2020), về mối quan hệ giữa người ủy thác và người đại diện, thường là các quản lý DN và các vấn đề liên quan đến việc phân chia quyền sở hữu và quyền kiểm soát trong công ty. Tuy nhiên, các nhà đại diện có thể có những hành động nhằm tối đa hóa lợi ích cá nhân, bằng cách kiểm soát và giới hạn truy cập thông tin bảo mật của công ty.
Lý thuyết đại diện giải thích về sự xuất hiện của các hành vi này ảnh hưởng đến kết quả tài chính của công ty và giá cổ phiếu, do sự xung đột về lợi ích giữa bên đại diện là những nhà quản trị DN và các nhà đầu tư trên thị trường.
2.2.2. Lý thuyết thị trường hiệu quả
Lý thuyết thị trường hiệu quả nghiên cứu về tính hiệu quả của thị trường và khả năng sinh lời của nhà đầu tư, thông qua việc tham gia giao dịch trên thị trường (Fama, 1970). Theo lý thuyết này, giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán sẽ phản ánh các thông tin công bố hiện có trên thị trường, bao gồm cả thông tin tài chính của DN, đồng thời cũng phản ánh sự kỳ vọng của nhà đầu tư đối với DN đó. Tuy nhiên, nếu DN thực hiện QTLN và CBTT không chính xác ra ngoài, giá cổ phiếu trên thị trường sẽ không trung thực và không phản ánh đúng tình hình hoạt động của DN.