25 Th4 QUY ĐỊNH MỚI VỀ CHỮ KÝ ĐIỆN TỬ VÀ DỊCH VỤ TIN CẬY
Chính phủ chính thức ban hành Nghị định số 23/2025/NĐ-CP quy định về chữ ký điện tử và dịch vụ tin cậy, có hiệu lực thi hành từ ngày 10/4/2025. Đây là một bước đi quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động giao dịch điện tử, định danh số và bảo đảm an toàn thông tin trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia.
Phạm vi áp dụng của Nghị định bao gồm tất cả các cơ quan, tổ chức và cá nhân có tham gia hoặc liên quan đến việc sử dụng chữ ký điện tử và dịch vụ tin cậy, ngoại trừ chữ ký số chuyên dùng trong công vụ.
Nghị định phân loại rõ 4 loại chứng thư chữ ký điện tử gồm:
- Chứng thư chữ ký số gốc do tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực điện tử quốc gia tự cấp.
- Chứng thư của tổ chức cung cấp dịch vụ tin cậy, dùng trong các dịch vụ như: cấp dấu thời gian, chứng thực thông điệp dữ liệu và chứng thực chữ ký số công cộng.
- Chứng thư chữ ký số công cộng, cấp cho tổ chức hoặc cá nhân sử dụng.
- Chứng thư chữ ký điện tử chuyên dùng, sử dụng trong hoạt động nội bộ hoặc trong các ngành nghề đặc thù.
Các chứng thư phải chứa đầy đủ thông tin định danh của đơn vị cấp và người được cấp, khóa công khai, thời hạn hiệu lực, mục đích sử dụng và trách nhiệm pháp lý liên quan. Thời hạn hiệu lực được quy định như sau: chứng thư gốc có hiệu lực tối đa 25 năm, chứng thư của tổ chức cung cấp dịch vụ tin cậy từ 5 đến 10 năm, chứng thư chữ ký số công cộng tối đa 3 năm, và chứng thư chuyên dùng tối đa 10 năm.
Đối với chữ ký điện tử chuyên dùng, Nghị định yêu cầu phải đáp ứng điều kiện bảo đảm an toàn theo quy định tại Điều 22 Luật Giao dịch điện tử, bảo đảm tính xác thực và toàn vẹn trong quá trình sử dụng cho hoạt động nội bộ, đại diện hoặc liên kết giữa các đơn vị cùng hệ thống.
Bên cạnh đó, Nghị định cũng đặt ra các tiêu chuẩn kỹ thuật đối với phần mềm ký số và kiểm tra chữ ký số, nhằm đảm bảo khả năng xác thực người ký, kiểm tra hiệu lực chứng thư, kết nối với cổng dịch vụ công cộng và bảo vệ toàn vẹn thông điệp dữ liệu.
Việc cấp phát và sử dụng chữ ký số, đặc biệt trong các giao dịch công khai và chính thức, phải đúng với chức danh, thẩm quyền được ghi nhận trên chứng thư. Trường hợp ký thay hoặc ký thừa lệnh, người được ủy quyền phải sử dụng chữ ký số của chính mình, phù hợp với quy định của pháp luật.
Nguồn: Thư viện Pháp luật